Thật ra, người đặt ‘nền móng’ cho sự suy vi của triều Trần chính là ông vua cha Trần Minh Tông kia! Những hành động, quyết sách của Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đã vô tình đào một cái tổ mối dưới toà thành vương Triều. Cái tổ mối đó cứ dần dần, âm thầm đục khoét lở ra to mãi, đến lúc không thể cưỡng lại được, sụp thành. Âu đó cũng là lẽ thịnh suy ở đời.
Khi đặt ông vua Trần Dụ Tông- Trần Hạo thơ bấy mới có 6 tuổi lên ngôi (Hạo sinh năm 1336, lên ngôi năm 1341), rõ ràng mọi quyền bính trong nước vẫn thuộc về ông Thái thượng hoàng đến tận lúc chết (năm 1357). Nhưng cũng như triều vua trước là Trần Hiến Tông, dưới sự trị vì của Thái thượng hoàng Trần Minh Tông, mọi việc trong nước Đại Việt vẫn ổn, dù bên ngoài Chiêm Thành hăm he đòi đất. Và bên Trung Nguyên thì rối loạn, đang bị chia năm xẻ bảy. Phải đến khi Trần Minh Tông băng hà, Trần Dụ Tông năm đó 22 tuổi, chính thức cầm quyền, triều Trần bắt đầu con đường đổ dốc theo quy luật “thịnh-suy” của muôn đời.
Trần Minh Tông trị vì đã tiếp tục sử dụng các quan đại thần xuất thân nho học vào việc điều hành triều chính như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát. Trọng dụng Chu An là bậc văn thần nổi tiếng đương thời làm thầy dạy cho thái tử. Đặt chức Đồn điền sứ và phó sứ ở Ty khuyến nông để trông coi việc khai khẩn, phát triển nông nghiệp.Năm 1345 lại cho tổ chức kỳ thi Thái học sinh (Tiến sĩ) để chọn người tài cho nước nhà.
Nhưng cũng trong chuyện nội trị, Thái thượng hoàng đã mắc những sai lầm lớn gây di họa về sau không biết đâu mà lường hết: năm 1342, nhà vua đến Ngự sử đài rồi bãi chức hai trung quan là Giám sát ngự sử Doãn Định và Nguyễn Như Vi. Vì họ đã làm sớ kháng nghị, nói Thái thượng hoàng không được vào Ngự sử đài với lời lẽ gay gắt. Thông lệ các triều vua phong kiến phương Đông, vua đương nhiệm bị cấm không được vào Ngự sử đài là nơi các quan làm nhiệm vụ biên chép trung thực các việc vua đương ngôi làm (thực lục), để sau này làm tư liệu lập sử về vị vua đó khi đã chết. Các quan ngự sử thường chọn những người trung thực, cứng rắn, họ sẽ chép chính xác mọi việc vua làm, bất kể tốt xấu.Nên cấm vua đến Ngự sử đài để không tác động được đến ghi chép của sử quan là vậy. Nhưng Trần Minh Tông đã không tuân theo phép xưa, lại còn bãi chức cả sử quan trung thực, điều này trực tiếp làm rối loạn kỷ cương phép nước. Năm 1351, Thái thượng hoàng lại mắc lỗi nghiêm trọng: tha chết cho Trâu Canh, tên thầy thuốc gốc Tàu này đã làm băng hoại triều đình, bằng một cái phương thuốc quái gở để chữa bệnh liệt dương cho Trần Dụ Tông: giết một đứa bé trai lấy mật, hòa với dương khởi thạch cho uống rồi thông dâm với chị ruột!
Trong việc đối ngoại, Thái thượng hoàng và vua Trần Dụ Tông sau này đều khá khôn ngoan trong việc xử lý tình hình bên Trung Nguyên khi đó: nhà Nguyên suy yếu, các thế lực quân phiệt đua nhau nổi lên khởi nghĩa chống lại. Thời gian đầu, thế cục chưa rõ ràng nên triều đình nhà Trần chọn thái độ “trung lập” chờ thời là đúng đắn. Mặc dù một trong những thế lực mạnh nhất khi đó là Trần Hữu Lượng, con trai của Trần Ích Tắc đã nhiều lần cho người sang ta dùng tình thân kêu gọi hỗ trợ: năm 1354 Trần Hữu Lượng sai sứ sang xin hòa thân! Năm 1359 sai Lê Kính Phu đi sứ sang phương Bắc thăm dò thực hư để có cách xử lý phù hợp. Năm 1360 đại chiến giữa Trần Hữu Lượng và Chu Nguyên Chương, nước ta cũng đứng ngoài, chỉ thu nhận người chạy loạn. Năm 1361, Trần Hữu Lượng lại sai sứ sang xin quân cứu viện cũng bị từ chối. Việc nhà Trần khi đó không can dự vào nội chiến của Trung Quốc là một hành động sau này được các sử gia đánh giá là đúng đắn.
Đến năm 1357, Thái thượng hoàng Trần Minh Tông băng hà, chấm dứt 43 năm ngự trên đỉnh cao quyền lực Đại Việt (làm vua 15 năm, Thái thượng hoàng 28 năm). Rất có thể sự trị vì thực sự của Trần Minh Tông quá lâu, dù có làm cho Đại Việt được yên ổn thái bình nhưng đã khiến cho xã hội trì trệ, ngưng đọng và suy yếu. Lúc này Trần Dụ Tông 22 tuổi, chính thức nắm quyền. Và ngài vua trẻ này hầu như lập tức lao vào ăn chơi xa xỉ khi không còn ai kiềm chế nữa. Năm 1362, mùa xuân, tháng giêng, lệnh cho cho các vương hầu công chúa dâng các trò tạp hý vua xét duyệt, trò nào hay thì thưởng. Nhưng đây cũng có thể gọi là hành động văn hóa: mở đầu cho nền kịch nghệ nước nhà. “Nước ta có tuồng truyện bắt đầu từ đấy”, ĐVSKTT đã chép vậy.
Lại gọi các nhà giàu trong nước vào cung đánh bạc làm vui. Ta nên nhớ, dưới triều vua Trần Anh Tông ngài còn sai đánh chết viên quan Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội đánh bạc để răn đe thì, sẽ thấy mức độ sa đọa làm đổ nát kỷ cương triều chính của Trần Dụ Tông đến đâu! Tháng 10/1363 cho đào hồ, khai ngòi, xây núi…nuôi chim thú cá lạ, nuôi cả cá biển trong cung, xa xỉ tột cùng. Tháng 6/1366 đi sang nhà Trần Ngô Lang chơi đến canh ba mới về, bị cướp mất cả ấn báu, gươm báu. Cả triều đình như câm như điếc vào hùa với sự chơi bời không giới hạn của ông vua này. Trước những thảm cảnh đó, thầy dạy là Chu An đã dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu chém đầu bảy kẻ gian thần để chấn chỉnh triều chính, nhưng không được vua chấp nhận. Chu An tuyệt vọng bỏ về núi Phượng Hoàng, Chí Linh ở ẩn. “Không tin bậc hiền nhân thì nước trống rỗng như không người vậy.” (lời bình của Ngô Sĩ Liên trong ĐVSKTT).
Hành động tệ hại cuối cùng mà Trần Dụ Tông làm đó là do không có con trai nối dõi, khi sắp chết (Dụ Tông chết 25/ 5/1369) đã xuống chiếu cho đón một kẻ ngoại tộc là Dương Nhật Lễ, nhận xằng làm con,vào cung nối ngôi! Việc đưa Dương Nhật Lễ, vốn dòng ‘con hát’ lên ngôi vua dù chỉ một thời gian ngắn (từ tháng 6/1369 đến 10/1370), nhưng đã đẩy triều vào một cuộc Trần khủng hoảng trầm trọng, đẩy sự suy vi vào sâu một tiến trình không cứu vãn được nữa. Dụ Tông chôn ở Phụ Lăng, thuộc xã An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh. Về ông vua này ĐVSKTT viết: “Chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó.”